Khói biếc cuộn về chứa chan
Đọc "Cậu ấm" của Trần Chiến, bài đăng Diễn đàn (http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/khoi-biec-cuon-ve-chua-chan).
1. Gần đây, tôi hay có
việc phải về quê - tức là nơi bố mẹ sinh ra, cũng không xa Hà Nội lắm, thậm chí
một nơi đã lên quận thuộc về nội thành. Cảm giác của tôi luôn là nặng nề, lạc
lõng giữa không gian ngột ngạt của bê tông hóa không quy hoạch của làng xóm mới
phất, và giữa lằng nhằng thủ tục hương thôn của một cộng đồng đang có chiều tan
rã. Nó là một kết quả trông thấy từ lâu của quá trình đô thị hóa, hay là “thực
dân” của làn sóng ảnh hưởng từ bên ngoài. Nhìn vào những ngôi nhà nông thôn thì
thấy ngay. Những ngôi nhà xây lối truyền thống ba gian hai chái, vốn gần như
không có không gian riêng tư. Những con người sống trong đấy chia sẻ hoặc phơi
cả giường chiếu và lề thói sinh hoạt ra với cả đại gia đình, thậm chí đến ngày
giỗ chạp thì cái giường cũng thành chỗ ngồi ăn cỗ của khách. Trong cơn sốt mua
sắm tiện nghi vật chất, mâu thuẫn giữa sở hữu riêng và chung khiến cho những
ngôi nhà này lạc thời. Ít nhất thì size của tủ lạnh hai buồng hay màn hình 42
inch nhiều khi vướng víu trong bước gian 2m, chưa kể thép mạ kền và nhựa cộc lệch
với gỗ và gạch đỏ.
Vì thế dĩ nhiên xảy ra
việc là họ đập đi xây nhà “biệt thự” hoặc xây một cái nhà mới trên đất dãy nhà
ngang nhìn vào nhà cũ, giờ làm “nhà thờ tổ” chẳng hạn. Nhà mới thỏa mãn sức chứa
đồ đạc của nả theo size hiện đại, có phòng riêng. Những cái vỏ ốc riêng tư, lấm
tấm vết bùn trong một cái rổ chưa ráo nước ao bèo. Nhưng đám giỗ hay bữa chuyển
mả vẫn là nơi thể hiện tuyệt vời phong tục cũ kỹ. Đàn ông tay dao tay thớt, đàn
bà tay nhặt tay lựa. Người già nhanh mắt xếp khách vào mâm, người trẻ nhanh
chân chuyển rượu rửa hài cốt. Hồi học đại học, tôi đã khá sửng sốt khi chứng kiến
một thằng bạn tự mình quán xuyến việc mổ một con chó rồi nấu nướng pha phách đủ
bảy món trong liên hoan cả lớp. Đứa bạn học này nhà cũng ở sát nách quê tôi,
nhà nó giờ thuộc về quận Hà Đông. Giờ cậu ta ăn mặc đi lại trông hệt như ông
cán bộ địa chính địa phương. Nó cũng có tâm hồn nghệ sĩ, cũng vẽ linh tinh,
cũng thích Văn Cao. Mê thịt chó, thích Suối mơ. Nói chung là đa sắc như mấy cái
quận thò thụt quanh Hà Nội.
Hồi bé tôi cũng có thời
gian nghỉ hè hay về quê, hồi học đại học và mới đi làm cũng thích tìm hiểu
không gian làng xã. Nhưng nói thế nào nhỉ, càng ngày tôi càng thấy văng khỏi
không gian ấy. Tôi không biết rằng quá trình tôi trải qua có thể chính là một
giai đoạn của các xã hội thay đổi về cơ cấu, từ chỗ nông thôn chiếm 85% dân số
sang chỉ còn 2/3 và dự kiến còn một nửa trong thập niên tới. Riêng Hà Nội, dân
số đã chiếm hơn 1/3 số dân đồng bằng sông Hồng. Vào lúc bé dại, đồng quê là một
cái gì khiến tôi có cảm xúc. Khi lớn rồi, nguyên quán là cái gì khiến tôi như
mô cấy ghép không bắt vào được. Tôi không phải là loại Tây An Nam, tôi cũng
không có trải nghiệm phương Tây hoàn toàn. Nhưng bản sắc cổ truyền không thể có
ở chúng tôi, những đứa con của phố “Hàng Đợi” (có ai nhớ tiểu thuyết “Những đứa
con phố Arbat” đình đàm hồi Liên Xô cải tổ không?). Tôi cũng như nhiều người
cùng thế hệ, đã là một loại thế hệ chuối ngay trên chính quê nhà. Ngoài vỏ
chúng tôi màu vàng thậm chí còn có cả lấm chấm trứng cuốc như ai, nhưng ruột là
thứ thịt chuối nhàn nhạt, chua chua như loại chuối biến đổi gen, quả to, chín đất
đèn bán ê hề ngoài chợ lẫn siêu thị bây giờ. Chúng tôi cũng có nhiều kẻ thích hội
hè đình đám, nhạc nào cũng nhảy, lễ nào cũng đến giơ máy ảnh chụp loách choách,
yêu di sản cha ông ghét sư tử Tàu. Chúng tôi là THỰC DÂN MỚI.
2. Bởi vậy tôi tìm thấy
nhiều điều để đọc trong mấy cuốn sách của Trần Chiến. Mào đầu dài dòng vì văn
anh Chiến cũng dài, nhưng đa phần không rườm. Có lẽ vì tôi đồng cảm với những số
phận nổi trôi của những người có chút thiên lương trong mấy chục năm qua mà anh
đã viết trong Cậu ấm (tiểu thuyết mới in năm ngoái), Đèn
vàng, Cõi người, Bốn chín chưa qua, hay nhiều truyện giả cổ trong mấy tập
như Gót Thị Màu, đầu Châu Long. Trần Chiến ắt không phải là gương mặt
ăn khách, nhưng các cuốn sách của anh có khả năng dựng một phong cách đậm nét.
Chúng thực sự là một cây cầu dẫn dắt bất cứ ai muốn tìm hiểu một phân nửa thế kỷ
qua, khi cuộc đụng độ giữa hai nền văn hóa thành thị (nhiều nét ngoại lai) với
nông thôn (chắc chắn bản địa) đã dẫn đến kết quả là những thế hệ chuối Việt như
chúng tôi và khung cảnh kiến trúc quy hoạch nông thôn và thành thị nhất trí tín
nhiệm cao nhà ống.
Ở Cậu ấm, người ta gặp lại một thời Hà Nội vừa nôn nao náo nức mà vẫn
tỉnh táo, nhưng rồi không cưỡng được cơn xoay vần của thời cuộc. Những trang viết
về phở Hà Nội tản cư, chuyện những người Hà Nội bị kiểm thảo rồi dinh tê, rồi
những người Hà Nội “lưu dung” đã bô nhếch so với chính họ thời xưa - nhưng vẫn
cần mẫn chăm chút cái gì đó hoa mỹ cho một thành phố bao cấp cũng cần một tí ti
gì sang cả để làm dáng... Cuốn sách kể khá kĩ về những chuyện làm báo thời
Pháp, thời nhá nhem tiền khởi nghĩa, thời tạm chiếm rồi thời sau giải phóng,
nhiều thứ mà phải “người trong nhà” mới biết và mới viết cho hay.
“...Ta
ra đi đô thành rừng rực
Ta
trở về lửa ngụt trong lòng
Vận
chả ưa gì Sơn Ngọc, vì kiểu vo ve “bám đít” Bính Trần ở khu tự do,
nhưng lại nằm lòng hai câu này của ông ta, đăng báo Sao sớm.
Những câu thơ nói lên sự ngổn ngang trong lòng kẻ hồi cư. Sơn Ngọc
nhảy về Thành trước cả Vận, trong dòng văn nghệ sĩ “không chịu được
gian khổ kháng chiến” như ngoài kia lên án, giờ cộng tác với vài tờ
báo ở Hà Nội, cốt sinh nhai, viết câu thực lòng câu đánh đĩ cả tử
tế lẫn nhảm nhí nhưng không quay lưng chửi Việt Minh. Đấy là chỗ
thương được.
Không
ngổn ngang sao được, khi biết Việt Minh sẽ thắng. Pháp phải rút, theo
cách gì không biết nhưng nhất định là thế. Đài Pháp Á càng loan tin
liên quân thắng trận, dân tình càng tưởng ra điều ngược lại.
Thế
mà hồi ngoài kia, Sơn Ngọc đã viết “Ăn xong bát phở, ra Bờ Hồ thấy
yêu nước quá!”. Câu văn có lẽ được viết trong cơn nhớ Đất Thánh,
nghiêm túc nhưng nhả nhớt, đã bị đem ra các cuộc khai hội phê bình
tóe khói. Đem Tổ Quốc đặt bên phở phiếc, so sánh thậm hạ tiện.”
Còn đây là một đoạn
tả về khung cảnh phố cổ Hà Nội từ trên cao - nóc nhà hàng Mỹ Kinh - mà trong
sách anh đã đổi tên thành Mỹ Vị:
“Bầu
trời bên trên đùng đục hắt sắc hồng anh ánh xuống khiến khu phố cũ
bên dưới nhuốm chút mầu huyền hoặc. Từ chợ Đồng Xuân xuống giáp khu
nhượng địa, từ đê sông Cái chạy sang tòa thành cổ còn cột cờ, cả
một đại dương mái nhà xô vào họ. Những con sóng cao thấp khác nhau,
ngói âm dương, ngói mũi, ngói “tây” lộn xộn, vô trật tự, xám tai tái,
từng đợt gối nhau, nếp nọ ngả vào nếp kia thành một nhịp điệu
mạnh, bền dai không biết bao giờ mới ngừng, rất khó tả. Nhà cửa
không cao nên nhìn thấy hai ngọn tháp Nhà thờ Lớn, tưởng ra con hồ
thần thoại cạnh đấy cùng bao nhiêu xung đột văn hóa, tín ngưỡng đã
tràn chảy qua.
Dưới
chút nữa, cuộc sinh hoạt vĩ đại và riêng tư của hàng phố đang chập
náo nhiệt nhất mồn một trước mắt. Đường phố như một dòng sông, xích
lô ba gác xe đạp ô tô, những người bước vội những kẻ thong dong trôi
chi chít, thỉnh thoảng mắc vào nhau tấp lại rồi chảy tiếp.”
Mặc dù cuốn sách
khá dày, 501 trang, nhưng cảm giác vẫn còn có thể viết thêm được. Đây là cuốn
mà biên tập viên như tôi đọc đến bông 3 vẫn thấy cảm xúc. Có lẽ viết kỹ thuật
là một chuyện, tư liệu là cái tạo độ dày, nhưng cảm xúc vẫn là thứ giữ sự tập
trung của người đọc được suốt độ dày đó.
Cậu ấm viết về sự lựa chọn công việc của Vạn, một người
được sống sướng lúc bé, nhưng đã không theo nghiệp nhà in báo của ông bố tư sản
tay trắng làm nên, mà thích nấu ăn. Tuy nhiên cũng phải đến khi chiến tranh nổ
ra, lên chiến khu làm anh nuôi rồi bị kiểm thảo rồi ra vùng tự do nấu phở rồi
dinh tê về thành nấu bún thang, tâm thế “đầu bếp” mới chắc chắn. Khi đọc đến chỗ
gia sản nhà in phải hiến cho nhà nước, rồi cô vợ tư sản xinh đẹp phải đi làm
công nhân cho chính cái nhà in đó, kiêm nhiệm vụ quét chuồng xí cho ngôi biệt
thự của gia đình giờ cũng chia năm sẻ bảy cho nhiều người khác đến ở; chợt thấy
ở đây có gì đó gần với môtip phim “Phải sống” của Trương Nghệ Mưu, rồi cũng có
không khí của “Bác sĩ Zhivago” lúc anh này trở về ngôi nhà to lớn đã tanh bành
với hàng chục cặp mắt lạ lẫm dò xét chật kín tiền sảnh. Nhưng nếu chỉ kể câu
chuyện thời cuộc thì cuốn sách chẳng có nhiều điều khác biệt, và lại hơi hẫng hụt
ở kết thúc.
Ở đây, Trần Chiến dùng
kỹ thuật khác, kỹ thuật của người ăn cỗ. Ai đi ăn cỗ thì cũng biết cỗ truyền thống
tới lui cũng chừng ấy món, cách thức nấu và thành phần không thay đổi. Người ta
đánh giá ngon hay không là ở các độ vừa lửa hoặc chín tới của thức ăn. Ăn gì
trước hay xen kẽ thế nào, cũng cần kinh nghiệm. Vào mâm mà đánh luôn cái móng
giò ninh hay bát xôi có ngọn thì quay ra các món khác đã nguội vữa hoặc bụng no
mất rồi. Trần Chiến nhấm nhót các món dọn mồi rồi dần dần vào món nặng. Anh
không xét nét lắm việc cầm đũa cho thanh nhã hay “năm quân” cầm tay cho tiện.
Anh nhìn thấy ở các món là những công đoạn nấu, những sắp đặt của người nấu, thấy
cả tình cảm và ý tứ của người đứng bếp. Nhiều khi nói quá, nhưng cũng phải thừa
nhận là người làm sao bếp làm vậy. Văn của Trần Chiến buộc người ta ăn theo lối
truyền thống, nhưng các món đã thuộc về loại nấu tinh và có lúc có cả món
fusion (hỗn hợp). Nhiều khi chỉ một vài món như thế cũng làm mâm cỗ đáng kể.
3. Trong một lần làm
nhân vật phim tài liệu về ngõ chợ Hà Nội, tôi đã viết lời nhận xét: Cái bếp là
cầu nối giữa chợ và nhà, giữa đồng quê và thành thị. Mấy cuốn sách của Trần Chiến
đã viết sâu về cái cầu nối ấy. Trong Cậu ấm, những cậu ấm cô chiêu
con nhà tư sản cũ hay đứa trẻ Hà Nội thời giải phóng khi cần vẫn sống được với
nông thôn. Cái khung cảnh đồng quê như phông nền cho tiền cảnh là mấy phố cũ dọc
ngang nhỏ bé Hà Nội. Dĩ nhiên căn bếp đã được đẩy lên thành sân khấu chính của
các mối quan hệ, từ quán bún thang mở trước cửa biệt thự của Vạn đến hợp tác xã
ăn uống Mỹ Vị ở phố cổ nơi Vạn đầu quân về làm xã viên, đều có căn bếp với đủ
ái ố hỉ nộ.
Trong truyện vừa Bốn
chín chưa qua, nhiều lần ống kính của Trần Chiến lia vào các căn bếp. Ở đây
là những căn bếp nhà quê, từ vùng chiêm trũng sông Hồng đến khu kinh tế mới Tây
Nguyên, nơi người đàn ông Toán đã cả một đời vùng vẫy chống cự lại số phận, hay
đúng hơn là giữa một thời con người xô dạt vì cái ăn. Và cả vì tình, vì cái
thói trăng hoa của anh đàn ông có tí máu văn nghệ. Trần Chiến đã từng dẫn tôi về
thăm cái nhà ngày xưa ở ngõ Hà Hồi, là bối cảnh cho Cậu ấm. Anh bảo,
ông thân sinh thỉnh thoảng mới đánh xe về thăm, còn lại ông ở với nhà bà cả.
Toán - nhân vật chính của
Bốn chín chưa qua - có vợ rồi lại lưu lạc với tổ ấm mới, rồi ở nơi mới lại
bập vào một người phụ nữ tạm bợ khác. Toán là người tốt, một người của đồng đất,
tháo vát, chăm chỉ, nhân hậu, có lẽ như bản chất người Việt muôn đời, nhưng cuộc
đời khắc nghiệt đã không để cho những người tốt ấy có được cuộc sống ổn định.
Ngòi bút của Trần Chiến có vẻ lành, không chĩa mũi nhọn về phía ai, nhiều khi
cũng làm người đọc sốt ruột vì chẳng có giải pháp gì, nhưng cuộc đời là chính vậy.
Vì thế nỗi đau đớn thu lượm được ở sau những câu chuyện được kể bằng giọng từ tốn
kia như nỗi đau của một kẻ đã tuyệt vọng với đồng đất đang bốc nhặt những di cốt
để làm một việc dường như vô nghĩa là “sang cát”, chôn ở nơi khác.
Viết về thủ tục gắn với
sự sống và cái chết của con người Việt buổi giao thời, Trần Chiến có những đối
sánh gần xa, những dẫn dắt nhiều cảm xúc. Dường như ranh giới giữa khoái lạc
(cái ăn) và sự mất mát (cái chết) rất mỏng, nó khó hiểu với bất cứ người bên
ngoài nào muốn tường minh:
“Vận
thẫn người, ngấm nghía từng câu chữ, đoạn quay lại: ‘Đám tang đưa về
quê, tức là về nông thôn, tôi ngẫm là mình không có nhiều tính cách
truyền thống. Đúng ra là mình thị dân quá rồi. Bao nhiêu phong tục
chả hiểu được, me xừ học giả Bơnoa chứng kiến sẽ có một đề tài
nghiên cứu, chắc thế’.
-
Tôi cũng hiểu nông thôn Việt Nam chứ – Tay nhân viên Viễn Đông Bác Cổ
tự hào – Tôi đã khảo sát, vẽ lại nhiều ngôi nhà cổ, cối giã, cối
xay, bàn thờ, bể nước mưa, thậm chí cả chỗ để nồi nước giải tức
là cái nồi hông đều có.
-
Đấy là những cái nhìn thấy, người Tây phương nào cũng có thể làm
theo phương pháp này. – Dục vào chuyện khiến Vận vui hẳn lên – Nhưng
đám tang thì các anh chỉ có thể tả chứ hiểu không dễ. Phải tin là
sau khi chết có một cõi khác, hồn không biến mất mà tồn tại quanh
người thân thì mới có ý nghĩa. Đấy, chú em tôi tiễn mẹ mà thấy
nhọc mệt hơn bà lão sáu mươi ở quê là vì không có cái niềm tin ấy.
Huống hồ người phương Tây”. (trích Cậu ấm)
Những căn bếp là
dấu hiệu của sự sung túc hay đời sống gia đình. Như đã nói, nó là nơi mà trẻ
con thành phố còn biết rằng có một cái nhà quê đang nuôi chúng, con gà khác con
bò ra sao, hay rau thì không phải vài luống trong hộp xốp hoặc vài chuyến dã
ngoại thực tế cho biết. Tôi vẫn thấy nghịch lý của những căn bếp trong những
ngôi nhà "biệt thự" ở quê, mọi thứ khép kín, bếp thì nấu đứng, nhưng
rồi các công đoạn truyền thống vẫn là chỗm hổm, là giãi thẻ trên sàn đá hoa, mà
chặt thịt, mà nhồi tiết, mà giã giò. Những bộ tủ bếp trông thật vô duyên trong
khung cảnh ấy. Tôi cũng không hiểu nhiều nhà còn làm cả quầy bar với dàn inox
gài ly các kiểu để làm gì, khi mà rút cuộc rượu trắng vẫn thắng rượu Tây, tất cả
vào chén sứ Tàu vốn để uống nước chè hết.
Trần Chiến từng định lấy
tên “Biệt thự” đặt cho cuốn Cậu ấm. Có lẽ chữ “biệt thự” vẫn kiểu cách,
vẫn mơ màng xa lạ với người Hà Nội nhiều chục năm đã bị triệt tiêu khái niệm “biệt
thự”. Sau giải phóng miền Nam, “biệt thự” thường hay gắn với những tên phim hay
truyện phản gián kiểu “Vụ án ở Biệt thự Hoa hồng”, đại để là cũng có dàn thiên
lý đã xa, có tiếng dương cầm giọng hát trẻ thơ, có tháng năm xưa của tuổi dại
khờ... Trong biệt thự thường quy hoạch khu vực quan trong cho bếp, vì phải tính
đến chế biến thô, tinh và nấu, đường chuyển đồ ăn tươi vào, rồi khu bàn ăn ở
đâu... Biệt thự mà để bà chủ hay người bếp xách con cá quả lõng thõng ướt chạy
qua phòng khách mới xuống bếp thì hỏng. Bếp chính là một sản phẩm có tính khoa
học của những căn nhà, tất nhiên biệt thự đã thế mà bếp nhà quê cũng vậy. Ở nhà
quê, bếp truyền thống nằm ở nhà ngang, tách khỏi nhà chính. Nó hợp tác được với
cung cách sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Thế hệ nhà văn như Trần Chiến rành
rẽ cả hai loại bếp đó. Vì thế không gian Việt Nam trong các tiểu thuyết hiện
lên uyển chuyển và tự nhiên. Với thế hệ các anh, ăn thịt chó chẳng phải là vấn
đề lớn hay không, chém lợn hay không là chuyện một thao tác sinh hoạt diễn xướng
dân gian. Với thế hệ khác, có lẽ cũng không biết căn bếp nhà quê vận hành thế
nào thì chém lợn đương nhiên khủng khiếp, thịt chó hẳn là eo ôi kinh tởm.
4. Tôi cũng từng
lấy làm lạ về thời kỳ âm nhạc tiền chiến, những nhạc sĩ đa phần có cuộc sống
khá sung túc so với mặt bằng lúc đó, sống ở thành thị, nhưng họ viết rất nhiều
về nông thôn. Nhạc sĩ Văn Phụng, một người có phần giống một nhân vật trong Cậu ấm, không đi theo kháng chiến, là một
dương cầm thủ và có những bài hát về Trăng
sơn cước, về Bức họa đồng quê,
trong thể thức những điệu nhạc nhảy phóng túng. Hoàng Giác, Hoàng Trọng, Thẩm
Oánh, Dương Thiệu Tước... không ngần ngại tìm thấy ở “khói biếc cuộn về chứa
chan, trông mãi đường về xa xôi” (Đường về - Hoàng Trọng và Quang Khải)
một mối tình sầu ly hương thực sự, như thể họ không phải là người sống ở Hà Nội.
“Nhạc ngày xanh reo vang nơi nơi
Miền đồng quê bao la xanh tươi
Trong ánh nắng mai tràn hương mới
Từ thành đô ra đi muôn phương
Hòa niềm vui say trong yêu thương
Gieo rắc khắp nơi nguồn vui sống”
(Ta vui ca vang -
Văn Phụng)
Đó là câu chuyện
chồng lớp của kỷ niệm, của một thế hệ bồi lắng những dòng chảy văn hóa. Sẽ rất
ít người biết được tại sao là “Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan”. Nghĩ đơn
giản và trực tiếp thì coi đấy là sai chính tả, sẽ sửa là chiếc thuyền nan.
Nhưng nó cũng hệt như cách nhìn nhà quê của thế hệ chúng tôi mà thôi. Trong khi
phải có một nguồn kiến thức mới dẫn ra được, à đó là điển tích, quế trạo lan
tương, thuyền có mái chèo trước bằng gỗ quế, sau bằng gỗ lan, rút từ bài
phú Tiền Xích Bích của Tô Đông Pha, trỏ cảnh chơi thuyền tao
nhã. Bản thân tôi phải giở mấy cuốn sách mới dò ra được, vậy thì cả mấy trăm từ
khác trong bài Thiên Thai của Văn Cao hiểu kiểu gì đây cho
đúng? Chúng tôi không ăn thịt chó, vẫn thích Thiên Thai và chẳng
hiểu gì.
Quá trình chuyển dịch
cơ cấu dân cư thành thị-nông thôn đang diễn ra thay đổi căn cốt hình thái xã hội
còn mạnh hơn những cuộc thực dân hóa hay cải cách ruộng đất ngày trước, bởi nó
trùng với sự biến đổi của tiến trình hậu thuộc địa của những nước như Việt Nam.
Hình như có một sự hẫng hụt nào đó trong hành trình tìm lại bản sắc. Những người
nước ngoài mê say các thành phố châu Á còn sót lại vẻ đẹp hoàng kim đầu thế kỷ
trước. Hồng Kông xuống đường phản đối can thiệp của chính quyền đại lục, hòng
níu kéo hình ảnh rồng chưa “đổi màu”. Hà Nội khắc khoải nhớ lại những chuyến xe
điện ngẫu nhiên chấm dứt cùng lúc với sự sụp đổ của bức tường Berlin. Chẳng phải
vô tình mà mở đầu Cậu ấm là cảnh chuyến
xe điện náo nức chở người Hà Nội hớn hở ngày đầu giành được độc lập năm 1945. Đô
thị và nông thôn cũ mất đi khi chính người sống ở đấy chủ động đánh mất. Những
chuyến xe điện leng keng kia sở dĩ còn được nhớ là vì chúng biến mất trước khi
rơi vào cuộc va chạm với lượng xe cộ cá nhân bùng phát thời mở cửa. Tôi hồ nghi
sự yêu thương của đại chúng dành cho chúng, bởi hệ thống tàu điện đô thị kiểu mới
đang xây dựng bị “ném đá” dữ dội trên mạng xã hội. Chúng đến sau và xâm phạm
vào trật tự đang có: chặt bớt cây, lấn vào không gian đô thị đã chật chội… Người
ta không thấy sự liên quan nào giữa hệ thống này với cái hệ thống đã đi vào thơ
nhạc, dù bản chất như nhau.
Những cuốn sách của Trần
Chiến, như Cậu ấm, Cõi người hay mấy truyện giả cổ, kể cả cuốn
tạp văn mới A đây rồi Hà Nội 7 món có một phong khí đặc thù, của những
người nghiên cứu lịch sử nhiều bao dung với quá khứ. Cõi người, cuốn
sách viết về sử gia Trần Huy Liệu, đọc lên thấy thấm thía thân phận, viết về
người thân mà vẫn có đủ độ tỉnh táo, thanh thản. Có thể giọng văn ấy không dành
cho số đông, có thể nhiều cuộn lớp quá, nhưng nó chắc chắn là một giọng của một
Hà Nội biết rõ mình được dựng nên từ đâu. Từ những mặt ruộng xâm xấp nước cày ải,
từ những con sông dềnh dàng tháng Bảy, từ những ông Thánh bà Mẫu chuyên bắt nạt
người hiền, gạch ngói, bê tông, đường nhựa, cột đèn mọc lên... Hà Nội có những
con đường cứ loanh quanh, loanh quanh như chính những kiếp người lấy thú vui bếp
núc, lấy sự tri túc làm căn bản. Họ đã góp vào những thần thoại mới
"cùng bao nhiêu xung đột văn hóa, tín ngưỡng đã tràn chảy
qua"...
Nguyễn Trương Quý
Nhận xét