Họ đã bắt đầu từ một Hồ Gươm (P.1)
Một khảo sát về cách viết về Hà Nội trong ca từ hay là những cách nhận diện Hà Nội...
Trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy đã dành nhiều
trang viết ở phần đầu kể về thời thơ ấu ở Hà Nội. Tuy nhiên, dù sau này sẽ có
nhiều thành công trong tình khúc, khác với các nhạc sĩ xuất thân từ Hà Nội, ông
nói, “vì quanh năm sống với hồ Gươm nên tôi còn thấy nó trong những hoàn cảnh
ít nên thơ hơn, như ra coi những xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm
mình xuống hồ nước, vì thất tình hay vì lý do buồn bã hơn là sự túng quẫn. Tôi
được sống lâu với chiếc cầu và ngôi đền nên còn nhìn thấy cả đám ăn mày ngồi la
liệt trên lối ra vào với lũ ruồi bu đầy trên những đôi mắt toét đỏ lòm. Và cảnh
nhà nho cuối cùng mặc áo bông rách, ngồi viết những chữ Phúc Lộc Thọ hay những
câu đối trên giấy đỏ… chỉ làm tôi bùi ngùi hơn là bồi hồi. Hồ Gươm với tôi là
giọt lệ, không phải lệ ngọc ngà mà là lệ buồn thương”.
Lệ buồn thương. Có thể thấy, với những gì Phạm Duy
thâu nhận, Hà Nội là một bức tranh đời sống có màu sắc hiện thực hơn là lãng mạn,
một Hà Nội của những góc tối lầm than, những phận người tăm tối ngay trước “nhà
tôi hăm bốn Hàng Dầu” lúc nhỏ. Còn khi vào đời, là những người kỹ nữ, những “kẻ
ăn mày xán lạn ngày mai”, như trong Tình
kỹ nữ (1945) hay Tiếng bước trên đường
khuya (1946), “bài ca xã hội đầu tiên của thời đại… trong đó tôi mô tả những
người sống về đêm và có một đoạn nhạc không lời nhái lại tiếng kêu đường của
người hành khất. Mỗi lần nghe lại bài này, tôi nhớ Hà Nội ban đêm vô kể”.
Tiếng
chân ngân dài từ từ đi ngoài đêm thâu
Tiếng chân dưới lầu, ôi tàn mộng bích câu
Ôi tiếng chân ai mang dài năm tháng
Ôi tiếng chân ai đã tàn tuổi thơ.
Tiếng chân dưới lầu, ôi tàn mộng bích câu
Ôi tiếng chân ai mang dài năm tháng
Ôi tiếng chân ai đã tàn tuổi thơ.
Phạm Duy nói, ông chỉ có đích danh bài hát Gươm tráng sĩ viết năm 1945 là viết cho
Hà Nội. Mãi sau này khi về Việt Nam, ông công bố thêm ca khúc Mơ dạo xuân Hà Nội, phổ thơ Thảo Chi, mang
nội dung hồi cố về một mùa xuân xưa cũ. Viết về Hà Nội, cố hương và thủ đô của
một chính thể mà ông từng từ bỏ, chống đối và rồi quay về - là mối quan tâm của
giới báo chí trong buổi tiếp xúc với Phạm Duy trước buổi biểu diễn Ngày trở về tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày
27/3/2009. Vậy tại sao Phạm Duy không nhắc đến Tiếng bước trên đường khuya? Đây cũng là một bài hát Hà Nội, nhưng
rõ ràng không phải là một Hà Nội trong dòng rất nhiều ca khúc phổ biến viết về
nơi này. Hoặc ở góc độ người nghe sống ở Hà Nội giai đoạn thập niên cuối thế kỷ
20 vốn là thời các bài hát chủ đề Hà Nội được yêu thích, thì Tiếng bước trên đường khuya văng ra khỏi
quỹ đạo.
Khúc
dạo đầu cho một biểu tượng
Quay trở lại giai đoạn thời kỳ đầu của tân nhạc - trước
năm 1945 - Hà Nội chưa trở thành một chủ đề âm nhạc. Nếu được nhắc tới, nó thường
là địa danh mang tính biểu tượng ái quốc trong dòng hành khúc khơi gợi lòng tự
tôn dân tộc của một nước thuộc địa như Thăng
Long hành khúc ca (Văn Cao, 1944) hoặc các địa danh lịch sử trong phạm vi
“đế đô” như Hồ Lãng Bạc (Xuân Oanh?
1944), Gò Đống Đa (Văn Cao, 1944), Hội nghị Diên Hồng (Lưu Hữu Phước &
Huỳnh Văn Tiểng, 1944). Những ca khúc này nằm trong trào lưu ca khúc “thanh
niên-lịch sử” khoảng những năm 1940-1945, chủ yếu là sáng tác từ nhóm Đồng Vọng
ở Hải Phòng do Hoàng Quý chủ xướng mà Văn Cao là thành viên và nhóm sinh viên Đại
học Đông Dương Hoàng-Mai-Lưu do Lưu Hữu Phước giữ vai trò chủ chốt.
Tháp
đây! Gươm thần đâu dưới nước biếc
Có chăng bao người lưu luyến tiếc
Này phường, này phố cũ
Này đường về ô xưa
Bóng dáng ngàn năm hồ phai khi tàn mơ
(Thăng Long hành khúc ca, Văn Cao)
Có chăng bao người lưu luyến tiếc
Này phường, này phố cũ
Này đường về ô xưa
Bóng dáng ngàn năm hồ phai khi tàn mơ
(Thăng Long hành khúc ca, Văn Cao)
“Thăng Long ngày nao cờ khoe sắc phấp phới” của Văn
Cao dường như chỉ mơ hồ liên quan đến Hà Nội thủ phủ Liên bang Đông Dương năm
1944. Nó dùng nhiều từ Hán Việt, nhiều tên gọi cổ, nhiều tích cũ: dòng sông Nhị Hà, lũ quân chàng Tôn, gươm thần,
bóng dáng ngàn năm hồ phai, loa vang xa chiêng thu không tiếng bát ngát trong
trống thành… Nó không đủ cụ thể để chứng tỏ nhạc sĩ viết về cảm xúc dành
cho thành phố hiện đại. Đặc biệt, trong dòng ca khúc “thanh niên - lịch sử”, gồm
nhiều hành khúc với mục đích “viết về những sinh hoạt lành mạnh vui tươi” (lời
nhạc sĩ Tô Vũ, em nhạc sĩ Hoàng Quý) của nhóm Đồng Vọng, thì đương nhiên Thăng Long hành khúc ca mang cảm hứng rõ
rệt về khơi gợi lòng yêu nước. Nó kết lại bằng lời hứa hẹn “dân chí sống yên
vui chờ gió mới bay về”. Hồ Lãng Bạc
viết về hồ Tây nhưng không ở khía cạnh lãng mạn của cảnh đẹp mà tập trung câu
chuyện về cuộc chiến đấu của Hai Bà Trưng chống quân Hán:
Thề
quyết chiến, liều xông lên thét hùng oai nữ vương
Ào gió thét, ầm sóng vỗ - thế cùng không chút sờn
Hồ vẫn đấy, người xưa đâu? Sóng hùng ghi nữ anh
Buồm quyến gió, thuyền rẽ sóng dưới trời mây nước thanh
Ào gió thét, ầm sóng vỗ - thế cùng không chút sờn
Hồ vẫn đấy, người xưa đâu? Sóng hùng ghi nữ anh
Buồm quyến gió, thuyền rẽ sóng dưới trời mây nước thanh
Hội
nghị Diên Hồng viết về thời điểm nhà Trần chuẩn bị
kháng chiến chống Nguyên Mông, “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến” và Gò Đống Đa viết về chiến thắng của Quang
Trung năm Kỷ Dậu, “ngày ngàn quân Thanh chết, dưới toán quân Việt Nam”. Nếu đi
tìm hình ảnh Hà Nội đương thời dựa theo địa danh thì chúng ta sẽ không có lời
giải.
Ca khúc lãng mạn hiếm hoi dường như lấy bối cảnh Hà
Nội đương đại khi đó là Bên hồ liễu
(1938, Văn Chung) cũng chỉ thuần túy mượn cảnh sắc Hồ Gươm để bày tỏ nỗi lòng man
mác rất vu vơ:
Ngàn
liễu dưới trăng lùa ca thu trong
Nước xanh thoáng in mây ngàn muôn trùng
Vầng trăng dưới nước long lanh tan loang muôn ánh ngà
Lá tơ lướt theo làn gió vờn bay thướt tha
Nước xanh thoáng in mây ngàn muôn trùng
Vầng trăng dưới nước long lanh tan loang muôn ánh ngà
Lá tơ lướt theo làn gió vờn bay thướt tha
Tiếng
ca đắm say cùng với ngàn cây lá lay
Có chi còn thú hơn trên đời
Dưới yêu thương ấm trong tơi bời
Lướt trên ngọn gió trong đêm dài
Có chi còn thú hơn trên đời
Dưới yêu thương ấm trong tơi bời
Lướt trên ngọn gió trong đêm dài
Theo Phạm Duy, bài hát này vào năm 1946 là tiết mục
sở trường của ca sĩ Mai Khanh ở phòng trà Quán Nghệ Sĩ ở đường Bờ Hồ. Rõ ràng,
chúng ta không đọc được câu chuyện nào hay sự việc gì trong những ca từ lãng
đãng kia, ngoài việc đoán có vẻ như đấy là Hồ Gươm, là Hồ Tây, hay những mặt hồ
có liễu ở Hà Nội. Nếu có thể xét đến bối cảnh Hà Nội xuất hiện một cách gián tiếp
qua ca từ, thì hẳn nên kể đến Biệt ly
(1937, Doãn Mẫn). Ca khúc này viết về một chủ đề quá quen thuộc trong văn
chương nghệ thuật trung đại, nhưng ở đây, bối cảnh mang tính hiện đại là nhà
ga, bến cảng với “còi tàu như xé đôi lòng”, những dấu chỉ vật chất của văn minh
Âu Tây thay thế những tiếng “trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt” (Chinh phụ ngâm, thế kỷ XVIII).
Vì thế, những âm thanh của đường phố Hà Nội đêm
khuya mà Phạm Duy dùng lại trong bài hát Tiếng
bước trên đường khuya của mình đáng chú ý ở khía cạnh ông nhìn ra một nét đặc
trưng của đô thị hiện đại. Từ tiếng bước chân trong đêm, ông hình dung ra những
số phận.
Có phải đó là bước chân miệt mài của người ăn chơi
Vừa lăn ra khỏi chốn yên hoa mang mùi hương úa
Hay đó là người nào đi khóc cuộc từ ly
Đêm tối chân tần ngần thương bóng ai tàn xuân.
Có phải đó là bước chân miệt mài của người ăn chơi
Vừa lăn ra khỏi chốn yên hoa mang mùi hương úa
Hay đó là người nào đi khóc cuộc từ ly
Đêm tối chân tần ngần thương bóng ai tàn xuân.
Sự lựa chọn góc nhìn từ rất sớm của Phạm Duy giúp người
nghe chóng nhận ra, ca từ Phạm Duy hoặc không đủ trau chuốt êm ả như màu chung
của các tình ca tiền chiến, hoặc nhiều cách xử lý tu từ gồ ghề hơn hẳn. Hà Nội
của Phạm Duy có thể ít được phản ánh trực diện trong số hơn một ngàn ca khúc của
ông, nhưng như những gì ông sớm nhận diện khung cảnh sống thuở nhở quanh Hồ
Gươm, nó là một đô thị thực sự đương đại. Âm nhạc của Phạm Duy sẽ đi hẳn một vệt
âm nhạc đô thị trước khi ông có thành tựu với nhạc dân ca và sẽ còn ảnh hưởng rộng
rãi đến nhiều thế hệ. Hà Nội của Phạm Duy kém ảo mộng hơn Đoàn Chuẩn (Dìu thế nhân dần vào chốn Thiên Thai – Thu
quyến rũ, 1951). Cũng là lả lơi, cũng là dìu dắt nhạc điệu, nhưng của Phạm
Duy có vẻ cụ thể hơn, nhiều nỗi bẽ bàng diễn đạt trực tiếp, không cần những
“thuyền đã sang bờ, đường về không lối” của Gửi
gió cho mây ngàn bay hay “thuyền cắm tay sào từ cuối thu” của Chuyển bến, những sáng tác gần gũi chủ đề
của Đoàn Chuẩn sau này vào đầu thập niên 50:
Sánh
vai nhịp bước giang hồ
Kề vai ước xây nhà bên suối
Kề môi ước gây vài đường tơ
Kề vai ước xây nhà bên suối
Kề môi ước gây vài đường tơ
Ta
ôm người đẹp trong tay
Bên nhau mà hồn xa vắng
Ta nâng niu làn dư âm
Của khách năm xưa yêu nàng.
(Tình kỹ nữ, 1945)
Bên nhau mà hồn xa vắng
Ta nâng niu làn dư âm
Của khách năm xưa yêu nàng.
(Tình kỹ nữ, 1945)
Phạm Duy nói thẳng sự thật nhiều khi được đi lòng
vòng ở các nhạc sĩ khác: “chốn yên hoa mang mùi hương úa”. Văn Cao cũng năm
1945, viết về phố cô đầu Khâm Thiên giữa thời nạn đói với màu sắc có phần ghê rợn
hơn, quái dị hơn nhiều:
Xác
trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, 1945)
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
(Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, 1945)
Tuy nhiên, trong ca khúc, Văn Cao không khi nào diễn
đạt bằng ngôn ngữ đó. Bối cảnh trong ca khúc lãng mạn Văn Cao luôn là Thiên Thai, Suối mơ, trầm trầm không gian
mới rung thành tơ, đầy sương khói, trong trẻo, thần tiên và nhiều khi siêu
hình, một chốn Đào Nguyên dành cho tiên nữ, cho thiên tài, cho siêu nhân. Hà Nội
1949 mà Văn Cao mơ ngày về huy hoàng chói lọi đầy phẩm tính siêu việt:
Năm
cửa ô đón mừng
Đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón chào
Nở năm cánh đào
Chảy dòng sương sớm long lanh
(Tiến về Hà Nội, 1949)
Đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón chào
Nở năm cánh đào
Chảy dòng sương sớm long lanh
(Tiến về Hà Nội, 1949)
(còn tiếp)
Nhận xét