Trở lại trường tuổi 35 (P.1)
Bài này đã từng đăng 1 đoạn tóm lược, nay đăng cả bài để chúng ta cùng biết một không khí trường phổ thông khác, ở Anh Quốc ngày nay. Bài dài nên tôi đăng làm 2 phần.
SUNDAY TIMES - Bạn
nghĩ là đi học ngày nay dễ thở, trẻ con vẫn thường được bảo thế. Cộng tác viên
của chúng tôi đã thử nghiệm bằng cách quay lại trường học một tuần – và nhận ra
sự thật hoàn toàn khác.
Damian Whitworth (Sunday Times, Anh)
THỨ HAI
8.15 sáng. Tôi đang ngồi trong bãi
đỗ xe của trường Chigwell và quan sát những học sinh đang đến trường bắt đầu
một tuần mới. Chúng bước thong thả, buôn chuyện về kỳ nghỉ cuối tuần vừa rồi.
Trông chúng có vẻ thoải mái và dễ chịu. Không phải là rất hào hứng, có lẽ vậy,
khi trở lại trường, nhưng không thấy có dấu hiệu bất thường nào của sự khổ sở
cả. Người không thoải mái nhất trong buổi sáng nay chính là tôi. Thực lòng mà
nói, tôi thấy lo lắng. Dường như có một cơn khó thở lúc này: lại đi học bằng con
mắt của một đứa học sinh để quan sát hệ thống giáo dục. Chúng ta đã bị dội bom
bằng những câu chuyện về bảng điểm, các tiêu chuẩn và những kỳ thi tồi tệ.
Nhưng cái gì thực sự xảy ra trong những lớp học ở một ngôi trường độc lập[1]
ngày nay?
Chà, giờ tôi sắp khám phá ra thôi,
và ở tuổi 35 tôi đang lên cơn đau dạ dày trong ngày đầu tới trường.
Trường Chigwell nằm trên một diện
tích rộng 28,35 ha gồm cả đất rừng trên vùng đồi, ngay cạnh đường cao tốc ở gần
Essex. Nó được Tổng giám mục xứ York thành lập năm 1629, phòng học ban đầu nay
là thư viện. Trong số học trò của Chigwell ngày đó có William Penn, người lập
nên bang Pennsylvania ở Mỹ. Căn phòng nơi ông ta từng nổi tiếng vì thấy hình
ảnh của Chúa, giờ là một phòng hướng nghiệp.
Tôi được phân vào Năm 8. Tôi không
hiểu cách trường tổ chức khối học ngày nay, rồi được giải thích là Năm 8 gồm
lứa tuổi 12 và 13. Người nhân viên giới thiệu tôi với lớp là Kevin Farrant, một
thầy giáo thể dục và là trợ giảng, giải thích với cả lớp: “Cứ coi chú ấy như
học sinh nhưng nhớ là phải thân thiện nhé.”
Học sinh trong lớp chủ yếu là người da
trắng, nhưng có vài học trò gốc Á. Các bạn kèm cặp với tôi trong cả tuần là
Ronnie, 13 tuổi và Emma Hollis, 12 tuổi. Cả hai đều có vẻ rất người lớn và lịch
sự đáng ngạc nhiên. Tôi sẽ cùng học các lớp với các em này. Ở tuổi này, chúng
được giáo dục thành một nhóm theo vài chủ đề nhưng nằm trong khuôn khổ các môn
Toán và ngôn ngữ. Tôi được xếp ngồi cạnh Ronnie. Có một cái mùi cực kỳ khó ngửi
bốc lên từ một đống giày thể dục giấu dưới gầm bàn cạnh chúng tôi. Ít nhất thì
cũng có thứ không hề thay đổi kể từ khi tôi còn đi học.
Môn học đầu tiên của chúng tôi là Văn
minh cổ điển, một môn kết hợp giữa tiếng Latin và lịch sử, văn hóa và văn học
của thế giới Hy Lạp và La Mã. Tôi đã học môn Latin hồi ở ngôi trường tây nam
London, tôi thật quá may mắn khi đạt được điểm O bằng A[2]
bằng cách học thuộc lòng dài dằng dặc cả bài de Bello Gallico của Caesar. Năm sau đó, trường tôi như rất nhiều
trường công lập khác, đã bỏ môn Latin ra khỏi chương trình. Tôi rất chán ngán
về chuyện có cần dạy môn Latin ở trường hay không. Mọi học sinh ở Chigwell đều
học môn Latin đến tận Năm 8. Một số nhỏ học tiếng Latin và Hy Lạp đến bằng A và
tiếp tục nghiên cứu văn minh cổ điển ở đại học.
Dĩ nhiên, đến lúc vào học thì tôi
chẳng còn nhớ được gì cả. Biến thể của từ mensa
quá ư là rối rắm đến nỗi tôi thấy mình chắc chỉ có thể quẳng nó đi. Nhưng từ bellum đã giải thoát tôi. “Khá là dễ xử
lý phải không nào?” Mr. Tim Morrison, một thầy giáo trẻ và cũng là một học sinh
cũ của trường nói. “Hãy lướt qua phần này để đỡ cho bất kỳ học trò mới nào.”
Mọi con mắt xoáy vào phía tôi và rồi bắn lên phía trước. Thật nhẹ cả người khi
thấy sự châm chước như thế. Thầy Morrison, người thể hiện một sự hài hước kín
đáo, liền sau đó đưa ra một lô xích xông câu hỏi.
“Thưa thầy, tại sao người Hy Lạp nào
cũng có cái tên dài thượt thế ạ?”
“Thì để khác người.” Câu trả lời này
có vẻ làm người hỏi thỏa mãn.
Bài tập về nhà của chúng tôi - xác
định các nhân vật trong The Odyssey.
“Hãy tra trên Google,” thầy Morrison nói. Rõ ràng là phương pháp nghiên cứu đã vượt
xa khỏi cái thời dùng những quyển sách giáo khoa ít ỏi bìa quăn như tai chó
trong thư viện nhà trường.
Khi tôi tới lớp tiếng Anh, học sinh
đã đứng túm tụm, chúng tản ra khi tôi bước vào.
“Ông ấy đây này.”
“Ông ấy có phải học sinh đâu.”
“Ông ấy là học sinh đấy.”
Cô Cloonan, một cử nhân người Mỹ qua
đây năm ngoái, là một trong hai giáo viên trao đổi của chương trình William
Penn thường niên và đã ở lại. Cả lớp hôm nay đọc Những cái hố, một tiểu thuyết cho lứa tuổi teen của Louis Sachar,
nói về một trung tâm giáo dưỡng của thiếu niên Mỹ. Lớp học có một cuộc thảo
luận sôi nổi về cách dùng biểu tượng và hình ảnh của tác giả. Chúng tôi được
giao bài tập về nhà là chuẩn bị cho bài kiểm tra từ vựng.
Trên đường tới lớp học tiếp theo,
những câu hỏi thiêu đốt đặt ra là 1) liệu tôi có sắp phải dự lớp Thể dục và 2)
liệu tôi sẽ được phép nhảy lên hàng đầu khi xếp hàng ăn trưa không.
Tiếng Tây Ban Nha, một ngôn ngữ mà
tôi gần như chẳng có liên quan gì, cũng được dạy, nhưng dù sao tôi đã học được
vài từ về màu sắc. Rồi chúng tôi được đưa vào một xưởng học thiết kế và công
nghệ. Các thứ đã thay đổi một chút ở đây. Khi tôi đi học, chúng tôi phá phách
một lô những mẩu gỗ và kim loại trong vài học kỳ và rồi rời trường như những
đứa trẻ chẳng được đào tạo gì. Giờ thì xưởng học được trang bị những kỹ thuật
mới và có nhiều thiết kế ấn tượng treo trên tường. Mười bốn học sinh được giao
chủ đề ở cấp độ A.
Lớp học được giao đầu bài làm đồ
chơi bằng gỗ. Tôi đi lòng vòng như một món phụ tùng thay thế mà chẳng đóng góp
được gì. Tệ hơn nhiều những gì tôi đã làm được 20 năm có lẻ trước đây.
Vào bữa trưa, tôi đề nghị được xếp
hàng với đám học trò còn lại, nhưng hai bạn hướng dẫn thuyết phục tôi rằng thế
là không cần thiết và tôi nên chen lên trên. Tôi nhận thấy quả là bọn chúng
cũng làm như vậy.
Khủng quá! Chẳng có một thứ đáng phí
phạm nào lọt vào mắt cả. Trong một dãy những món trông có vẻ khá ngon, tôi chọn
mì cá thu nướng. Không tệ. Có pizza và một đĩa thịt, xúp và một khay salad nữa.
Và cả một vốc khoai tây chiên, dĩ nhiên rồi. Mọi người ở trường, từ học sinh
đến nhân viên, đều ăn trưa ở đây. Hoạt động phục vụ ăn uống thật náo nhiệt và
bao gồm cả trà chiều cho những ai ở lại trường sau giờ học để tham gia hoạt
động ngoại khóa. Mọi người ăn trong một phòng ăn rất tù túng xây từ khi trường
học vẫn còn nhỏ bé. Nhưng kết quả là, chật ninh ních thế này lại giúp cho có
những cuộc đối thoại sống động.
Sau bữa trưa, tôi có một khoảng thời
gian trống. Rời khỏi đám đông học trò, tôi cắm đầu đi về phòng sinh hoạt chung
của nhân viên. Có một nhóm nhân viên ở đó, đang chuẩn bị bài giảng trên những
chiếc laptop sáng bóng. Họ nhận ra sự có mặt của tôi trong các buổi học và cũng
tò mò ngang với bọn trẻ con. “Thật vui khi nhìn vào lớp và thấy một người lớn
ngồi đấy,” Tim Morrison, thầy giáo môn Cổ điển nói.
Vài giáo viên khác đang thảo luận về
lịch khai trương chính thức vào thứ Sáu của khối nhà kịch nghệ mới trị giá 2
triệu bảng do Nữ bá tước xứ Wessex cắt băng khánh thành. “Tôi không thể ngủ được
cả đêm qua vì phấn khích,” một người nói. Tôi không chắc anh ta có đùa hay
không.
Môn học cuối cùng của ngày hôm nay
là Toán, thứ đã hành hạ tôi hồi đi học. Nhờ được phụ đạo thêm, may sao tôi cũng
đã vơ được một điểm C ở level O. Tôi từng có một cơn ác mộng khiếp hãi, tôi mơ
thấy bị một thầy giáo bắt gặp ở hành lang trường cũ, bị ăn mắng và bị nhắc nhở
về kì thi ngày hôm sau mà tôi chẳng hề đi học một buổi nào suốt năm học.
Một cảm giác khiếp hãi đặc trưng mà
tôi không còn gặp hai chục năm rồi nay trở lại khi cô Charlesworth, một giáo
viên vui vẻ, bắt đầu nói lia lịa về đồ thị Carter. “Descartes thích nghiên cứu
triết học và toán học trong thời gian rảnh. Ông thực sự hứng thú với công việc
đó,” cô như reo lên khi lồng ghép bài giảng vào bối cảnh, thứ đã thiếu trầm
trọng khi tôi lần đầu tiên vật lộn với môn này.
Quy mô lớp học trung bình của lứa
tuổi này là 24 em, nhưng lớp này thì đông nhất, tới 28 học sinh. Có cảm giác là
không khí của buổi cuối ngày hơi mất trật tự và nhóm học trò ồn ào hơn trước
nhưng bài học vẫn chạy hết tốc lực. Tôi cũng gần như thế.
Tôi về nhà lúc 4 giờ chiều, lảo đảo
sau ngày đầu tiên của mình. Tôi phải tắm cho con. Rồi mọi thứ tôi làm được là
xem TV nửa tiếng, ăn một tí rồi đi ngủ. Không có bài về nhà nào phải chuẩn bị
cho ngày mai, vì thế cái nguy cơ bị chất đống tôi dành cho đêm khác.
THỨ BA
Chắc chắn là có những cách tồi tệ
hơn nữa để bắt đầu ngày của bạn hơn là làm bài kiểm tra động từ bất quy tắc
tiếng Pháp, nhưng khi tôi ngồi vào chỗ trong lớp của thầy Porter và thầy ấy
thảy một tờ giấy A4 ra trước mặt tôi, tôi đã nghĩ chính đây là một cách.
Dẫu vậy, tôi cũng hài lòng là mình
có thể nhớ được kha khá khi áp lực đè lên. Tôi làm đúng 6 trên 12 câu.
“Monsieur le journaliste?” thầy
Porter hỏi khi ông đi vòng quanh lớp để hỏi điểm chúng tôi.
“Sáu ạ,” tôi nói vẻ tự hào bằng
tiếng Anh.
“Sáu,” ông chữa lại bằng tiếng Pháp.
“Hừm. Đáng bị phạt. Thế là đầu bảng rồi.” Đó là một câu đùa (tôi nghĩ vậy)
nhưng cả lớp không nhận ra. Mắt chúng trợn tròn hết cả lên. Hầu hết đều đạt
điểm tối đa.
Môn Kịch nghệ thì ít thách thức hơn.
Trung tâm kịch nghệ mới là một cơ sở đẹp đẽ. Nhà trường đã chi 1 triệu bảng,
bằng với mức thu được từ quyên góp. Một phụ huynh đã ký một chi phiếu 30.000
bảng. Ở đây có một nhà hát 150 chỗ ngồi, có studio, ban-công, các phòng thay đồ
và văn phòng.
Bọn trẻ thích chỗ này, tụm thành
từng nhóm nhỏ xung quanh tòa nhà trong những phút cuối của buổi tổng duyệt và
trình diễn những màn ngắn trong vở Teechers
của John Godber. Bọn nhỏ cười rộ lên trước màn thầy giáo kịch nghệ mới đến và một
học trò bình phẩm: “Ông ấy chả giống một thầy giáo gì cả, trông như người đến
sửa ống nước vậy.”
Dạo quanh sân chơi vào giờ nghỉ, tôi
sa vào cuộc tranh luận với một cô giáo. Đồng nghiệp của cô từng bảo tôi là hệ
thống trường học cho các học sinh nhỏ chung trường với học sinh lớp lớn hơn sẽ
giúp chúng trưởng thành lên. Cô không đồng ý. “Chúng mất cả thời gian rất dài
để trưởng thành trong môi trường này vì chúng được bảo vệ quá mức.”
Những giáo viên khác bảo tôi rằng
“bọn trẻ ở đây rất được ưu đãi. Không phải tất cả, nhưng hầu hết đó. Cứ hỏi một
đứa ở đây xem chúng đi nghỉ dịp lễ ở đâu, câu trả lời sẽ là Venezuela, Caribbe.
Trong khi tôi thì đi hàng không giá rẻ quanh châu Âu và ở nhà nghỉ lữ hành cho
thanh niên.” Khi tôi nói về kỳ nghỉ với bọn trẻ, vài đứa nhắc đến kỳ nghỉ ở
nước ngoài ở giữa năm học và những điểm đến kỳ Giáng sinh xa xôi.
Tôi ăn trưa với thầy hiệu trưởng
David Gibbs, một người đàn ông 57 tuổi ân cần, nói năng dịu dàng, trước đây
từng dạy ở trường công Haileybury.
“Có học được gì thú vị hôm nay
không?” ông hỏi hai cô bé đang xếp hàng.
“Không có gì mấy ạ.”
“Ý các em là sao? Bố mẹ các em đã
trả bao tiền vào đây và các em chả học được gì cả.”
“Bọn em đã thử giết người nhân đạo
và học về Brazil.”
Sự kết hợp bất thường này đã qua
được màn điểm danh với thầy Gibbs.
Báo chí tràn ngập câu chuyện về vị
hiệu trưởng nghỉ hưu ở Westminter muốn dạy ở một trường cộng đồng để “tái nghề”
nhưng đã không đạt tiêu chuẩn vì ông không có chứng chỉ sau đại học về giáo dục
(PGCE).
Các trường tư thì thoải mái hơn.
Giáo viên thiết kế mà chúng tôi đã học hôm thứ Hai gần đây đã chuyển nghề từ
lĩnh vực công nghiệp và đang học nghề. “Một trong những ưu điểm của trường độc
lập là chúng tôi có thể tiếp nhận những người như thế. Chúng tôi nhận cử nhân
Oxbridge mà không cần PGCE,” thầy Gibbs nói.
Ông tin rằng “tuyển dụng giáo viên
là công việc quan trọng nhất của tôi. Tôi giống như một huấn luyện viên bóng đá
giải ngoại hạng đi tìm kiếm những cầu thủ hay nhất. Các giáo viên của chúng tôi
nhận được thù lao hậu hĩnh và môi trường làm việc thì hấp dẫn. Họ có thể dạy,
hay hơn nhiều so với phải làm cảnh sát hay công tác xã hội toàn thời gian.”
Sự so sánh với giải ngoại hạng đặc
biệt thích hợp khi nhắc đến đội ngũ nhân viên thể thao; họ bao gồm một cầu thủ
cricket đã từng chơi cho đội Derbyshire, một đội phó của đội bóng lưới tuyển
Anh và hai cầu thủ khúc côn cầu chuyên nghiệp. Thủ lĩnh mới của đội hỗ trợ việc
luyện tập cũng làm việc cho học viện trẻ của câu lạc bộ Liverpool.
Khi thầy Gibbs tới trường năm 1996,
ông đã có một tầm nhìn rõ ràng về hình ảnh trường mình nên có. “Điều quan trọng
nhất là tạo ra một môi trường cho các giáo viên có thể dạy và học sinh có thể
học. Phải ấm cúng và thân thiện nhưng cũng phải có ý thức về mục tiêu. Học sinh
cần phải biết chúng có thể và không thể làm gì.
“Chúng tôi là một ngôi trường chọn
lọc, vì thế mọi người đến đây kỳ vọng sẽ có được hạng A chất lượng kinh điển.
Nhưng chúng tôi cố gắng tạo ra một môi trường mà mọi người có thể nảy nở. Điều
đó không có nghĩa là bắt buộc phải kinh viện, có những phần không theo kinh
viện. Tôi muốn mọi học sinh có gì đó để
mong chờ hàng tuần, dù là một cuộc tranh tài thể thao, giải thưởng của Quận
công Edinburgh hay âm nhạc.” Bài tập về nhà “không nên quá tải.”
“Những năm tháng tuổi mới lớn rất
quan trọng trong những giai đoạn phát triển kiến thức phổ thông. Cũng trong
những năm này, cuộc đời có thể không mấy vui vẻ. Chúng tôi may mắn vì có được
những nguồn lực tốt, và còn vì chúng tôi có quy mô nhỏ để có thể tạo ra nỗ lực
lớn hơn trong việc chăm sóc từng cá nhân một.”
Ma túy cũng phủ một bóng đen. “Chúng
tôi không bàng quan. Tôi sẽ là kẻ ngây thơ nếu nói rằng không hề có ma túy. Một
vài học trò chưa bị phát hiện có thể đang dùng ma túy bên ngoài nhà trường. Chúng
tôi rất nghiêm khắc để không tồn tại chuyện đó trong phạm vi cơ sở của mình.”
Ông nói rằng đã có hai trường hợp dùng ma túy từ khi ông nắm giữ vị trí này.
Một trường hợp khá nghiêm trọng – hai học sinh đang bán thuốc cho học sinh nhỏ
hơn – chúng đã bị đuổi học. Trong 12 tháng sau đó cho đến kỳ kiểm tra cuối mùa
xuân của Hội đồng Trường học độc lập, một học sinh đã bị đình chỉ vĩnh viễn và
15 trò khác bị đình chỉ tạm thời vì những vấn đề về trật tự.
Buổi chiều có một “gánh xiếc hoạt
động” mà học sinh chọn từ trong số các lớp ngoại khóa. Tôi đến Câu lạc bộ Hy
Lạp và chứng kiến những màn tái hiện bạo lực kinh khủng của thần thoại Hy Lạp.
Chuỗi hoạt động ngoại khóa bao gồm từ trồng cây đến thư pháp, từ tiếng Nga đến
võ Choi Kwang-Do, và nhiều chuyến du khảo nước ngoài được đưa ra.
Những đứa trẻ này lấy đâu năng lượng
nhỉ? Ngày học được chia ra thành các tiết 35 hoặc 40 phút và thỉnh thoảng không
có giờ nghỉ đôi. Điều đó có nghĩa là phải chạy sô từ lớp này sang lớp khác và
chuyển môn học nhanh như chớp, từ tiếng Đức sang Toán chẳng hạn. Ở đây có tiêu
chí 35 phút là độ dài thích hợp để trẻ em giữ được sự tập trung. Mặt dở như một
giáo viên nói, đó là “mất nhiều thời gian để di chuyển giữa các lớp học.”
Không thể nào theo nổi thời khóa
biểu di chuyển nhanh và lắm thứ như thế, tôi thấy các buổi học quá ngắn và ngày
học quá căng. Tôi không hiểu liệu mình có thể theo được cả tuần hay không.
Trương Quý dịch
Nhận xét